Thứ Tư, 20 tháng 6, 2012

Kỳ tích của ngành giáo dục!


Thứ Ba, 19/06/2012, 17:32 (GMT+7)
TTO - Tỉ lệ đậu kỳ thi tốt nghiệp THPT năm nay trên 97%. Một kết quả rất đáng phấn khởi so với những năm trước, có lẽ sẽ làm nhiều người, nhiều ban ngành hoan hỉ. 
Một cảnh trong clip quay giờ thi môn địa tại phòng thi số 8 Trường THPT dân lập Đồi Ngô, Bắc Giang: một thí sinh thản nhiên quay xuống chép bài của bạn. Với tỉ lệ tốt nghiệp 78,39%, đây là trường THPT có tỉ lệ tốt nghiệp thấp nhất tỉnh Bắc Giang - Ảnh tư liệu.

Thật tình, với tư cách là người trong cuộc, tham gia trực tiếp vào guồng máy tạo nên thành tích ảo ấy, ngay từ lúc chưa thi tốt nghiệp, chúng tôi đã biết trước cái kết quả cao vời vợi ấy.
Ban giám hiệu các trường thì có thứ để nhắc đến mỗi khi cần có dẫn chứng để chứng minh uy tín cũng như chất lượng của trường. Giáo viên thì thở phào nhẹ nhõm vì sẽ không bị phê bình nhắc nhở vì tỉ lệ riêng của bộ môn thấp hơn trung bình chung như mọi năm. Học sinh và phụ huynh thì hân hoan khỏi phải nói.
Một điều tưởng chừng như tốt đẹp như vậy, tại sao lại khiến dư luận bất bình và khiến cho uy tín của ngành giáo dục càng ngày càng tuột dốc không phanh?
Tiêu cực ở đâu cũng có chứ đâu phải chỉ riêng trong ngành giáo dục. Nhưng nếu không do bệnh thành tích thì tiêu cực chỉ là một vài hiện tượng cá biệt, dễ phát hiện và không khó để bài trừ.
Nhưng nếu có động cơ từ bệnh thành tích, tiêu cực trở nên phổ biến, tràn lan (đến nỗi chẳng mấy ai thèm bức xúc).
Đến khi chứng kiến những clip ghi lại cảnh tiêu cực ở các phòng thi tại Bắc Giang được tung lên mạng, thì thiết nghĩ chẳng cần mất công chấm thi làm gì, kết quả đã rõ mười mươi. Những clip ấy như những hồi chuông báo động rằng: bệnh thành tích trong giáo dục đã quay trở lại (và tệ hại hơn xưa).
Chuyện này làm chúng ta nhớ lại những đoạn phim quay cảnh trường thi mà thầy giáo Đỗ Việt Khoa đã quay vào năm 2006 – điểm khởi đầu cho phong trào hai không trong giáo dục: nói không với tiêu cực và bệnh thành tích. Phong trào “Hai không” đã thật sự mang lại một luồng sinh khí mới cho ngành giáo dục, mang lại cho ngành niềm tin và sự tôn trọng của xã hội.   
Tiếc thay, phong trào tốt đẹp ấy, cùng với sự khuếch trương rầm rộ, đang ngày càng sa đà vào hình thức (Bất cứ cuộc họp hành hội nghị hội thảo gì của ngành giáo dục cũng đều đề cập đến nội dung này. Giáo viên mỗi năm phải báo cáo bằng văn bản hai lần xem mình đã thực hiện phong trào “2 không với 4 nội dung” như thế nào).
Tỉ lệ thi đỗ tốt nghiệp của cả nước tăng dần theo các năm: năm 2007: 67,5%, năm 2008: 75,96%, năm 2009: 80%, năm 2010: 95,72%, năm 2011: 95% và năm nay thì gần như tột bậc: 97,63%.

Những điểm số thi tốt nghiệp năm sau phải nhất định cao hơn năm trước chỉ làm đẹp bản báo cáo thành tích trong phút chốc. Thành tích trong bản báo cáo càng hoành tráng bao nhiêu thì thực trạng và chất lượng giáo dục càng đáng buồn bấy nhiêu.
Dạy các lớp 12 đối với đa số giáo viên chúng tôi là một việc làm mệt mỏi và nặng nề. Thái độ học tập của học sinh thì kém (không kém sao được khi thực tế đã chứng minh rõ ràng: không cần học nhiều cũng thi đậu tốt nghiệp) mà chỉ tiêu của nhà trường đặt ra là tỉ lệ học sinh đậu tốt nghiệp của toàn trường nói chung và của bộ môn nói riêng phải luôn bằng hoặc cao hơn trung bình chung của toàn tỉnh (bất kể chất lượng đầu vào của học sinh thế nào).
Sau mỗi đợt thi, tỉ lệ đậu tốt nghiệp của từng bộ môn, từng giáo viên sẽ được thống kê. Tỉ lệ học sinh đậu tốt nghiệp nghiễm nhiên trở thành tiêu chuẩn đo năng lực của giáo viên (như thể việc chất lượng học tập chỉ phụ thuộc vào người dạy - bất chấp đối tượng được giáo dục thế nào đi chăng nữa). Do vậy thành tích, bất chấp hậu quả, phải đạt được bằng mọi giá!
Không phải chỉ đến thi thi tốt nghiệp bệnh thành tích mới phát tác mà âm ỉ trong các nhà trường từ đầu đến cuối năm học, từ năm này qua năm khác. Bài kiểm tra nếu không quá 50% học sinh đạt điểm trung bình thì giáo viên phải tiến hành kiểm tra lại (cho đến khi nào đạt được tỉ lệ ấy thì thôi). Đối với giáo viên, nếu không quá 80% học sinh mình dạy trên điểm trung bình thì không được xét hoàn thành nhiệm, không quá 90% học sinh trên điểm trung bình thì đừng nghĩ đến các danh hiệu thi đua đã phấn đấu cật lực trong cả năm học qua.
Bệnh thành tích đã trở thành một hiệu ứng đôminô, kéo theo tất cả những ai nằm trong bộ máy!
Thi cử là để sàng lọc. Nếu một kỳ thi tiêu tốn đến hàng trăm tỉ đồng mỗi năm mà cả người giỏi lẫn người chưa giỏi, người chăm chỉ lẫn người lười biếng, người nghiêm túc cũng như người dựa dẫm đều qua được một cách mỹ mãn ngang nhau thì hiệu quả sàng lọc liệu có còn? Và có nên tiếp tục?
"Thói dối trá là biểu hiện của sự suy thoái về đạo đức trong đời sống xã hội" - câu 2 của đề thi tốt nghiệp môn văn năm nay - đáng để tất cả mọi người, không riêng gì thí sinh, suy ngẫm.
Với kiểu chạy theo thành tích bằng mọi giá như hiện nay, thói dối trá là một biểu hiện hay (buồn thay) đang là một hậu quả (tất yếu)?
MINH THƯ

Thứ Tư, 13 tháng 6, 2012

Muốn chuẩn phải đồng bộ


Thứ Tư, 13/06/2012, 08:56 (GMT+7)
TT - Đọc loạt bài “Giáo viên tiếng Anh rớt như sung rụng” trên báo Tuổi Trẻ, chắc hẳn nhiều người cảm thấy bất ngờ và hoang mang. Nhưng đối với những giáo viên ngoại ngữ từng dự các cuộc khảo sát ấy cũng như những người trực tiếp tổ chức khảo sát, nếu kết quả không thấp mới là lạ!
Quay trở về những năm cuối thập kỷ 1980 đến giữa thập kỷ 1990 - lúc nước ta bắt đầu đưa tiếng Anh vào giảng dạy ở các trường phổ thông, giáo viên tiếng Anh thiếu trầm trọng nên các tỉnh đã ồ ạt gửi người đi đào tạo.
Tại thời điểm ấy, ở khoa ngoại ngữ của các trường đại học lúc nào cũng có rất nhiều lớp mang tên địa phương cùng với các lớp cử tuyển của bộ. Các lớp này đương nhiên không kiểm tra chất lượng đầu vào nên cho dù đào tạo ở các trường đại học có tốt đến bao nhiêu đi nữa thì đầu ra cũng không thể nào ngang bằng với các lớp chính quy. Ngoài ra, sinh viên ở ngay các trường đại học cũng không có nhiều cơ hội thực hành tiếng với người bản ngữ.
Thêm vào đó, mặc dù nước ta hội nhập đã lâu nhưng giáo viên tiếng Anh chẳng có mấy cơ hội tiếp cận với thế giới cũng như để thực hành tiếng. Dĩ nhiên, ngành giáo dục luôn kêu gọi mỗi giáo viên là một tấm gương tự học và sáng tạo. Nhưng chất lượng chung không thể nào vì kêu gọi tự giác (hoặc tự phát) mà cao lên được. Mỗi năm vào dịp hè, giáo viên lại được tập trung mấy ngày gọi là tập huấn chuyên môn (cho có). Mỗi tỉnh cử vài người đi tập huấn, rồi những giáo viên được tập huấn này về truyền đạt lại cho các giáo viên khác. Chất lượng của những ngày tập huấn ngắn ngủi này chẳng khác gì những giọt cà phê dưới phin.
Thế rồi đùng một cái, giáo viên được triệu tập để khảo sát theo tiêu chuẩn chung của châu Âu. Sát hạch theo chuẩn quốc tế nhưng tổ chức lại cập rập chẳng giống bất cứ kỳ thi nào. (Nếu muốn lấy chứng chỉ ngoại ngữ quốc tế nào, thí sinh phải có thời gian tự học hoặc tham gia ôn tập mới mong đạt được kết quả mong muốn). Ai cũng biết không chỉ là kiến thức, ngoại ngữ còn là một kỹ năng, cần rèn luyện và thực hành nhiều.
Không chỉ ngơ ngác với kết quả thi thảm hại, giáo viên tiếng Anh còn bất ngờ hơn với kiểu bổ sung kiến thức sau khảo sát. Theo tiêu chí, giáo viên THPT phải đạt được trình độ C1, THCS phải đạt trình độ B2 và giáo viên tiểu học là B1. Để đạt từ trình độ thấp lên trình độ cao hơn, giáo viên sẽ được bồi dưỡng kiến thức kỹ năng trong vòng... một tháng! Bốn năm đào tạo ở đại học có thể không đạt chuẩn nhưng chỉ cần độ một tháng bổ sung kiến thức là có thể đạt chuẩn châu Âu? Cho nên, vừa kết thúc năm học giáo viên ngoại ngữ lại chộn rộn chuẩn bị để tham gia các lớp đào tạo lại (mà một số người gọi là lớp “giải ngân dự án”).
Khảo sát và đào tạo lại đương nhiên là việc làm cần thiết, nhưng liệu có thật sự hiệu quả không hay chỉ hao tiền tốn của khi chương trình học và cách thức kiểm tra đánh giá vẫn như cũ? Với chương trình học vẫn mang nặng tính hàn lâm và các bài thi thiên về đọc hiểu và ngữ pháp, từ vựng như hiện nay, đừng nói gì giáo viên đạt chuẩn hay không đạt chuẩn mà cứ thử đưa giáo viên bản ngữ về dạy ôn thi tốt nghiệp xem kết quả có đạt cao như mong muốn? Nếu không có sự thay đổi đồng bộ, e rằng dự án đi qua, mọi thứ lại im lìm như cũ.
Nên chăng cần xem xét lại cách thức kiểm tra đánh giá đối với môn ngoại ngữ. Nên xem ngoại ngữ là một chứng chỉ bắt buộc đối với học sinh tốt nghiệp THPT hơn là một môn thi. Bên cạnh đó, để tiếp cận với chuẩn chung của thế giới, tại sao chúng ta không sử dụng giáo trình chung mà phải tự soạn ra bộ sách riêng của mình? Dạy và học theo giáo trình nội địa để bắt kịp tiêu chuẩn châu Âu, liệu có phải là một việc quá sức cho cả thầy lẫn trò?
 LÊ THÚY HẰNG

Sẽ mãi yếu và thiếu


Thứ Ba, 24/04/2012, 08:44 (GMT+7)
TT - Đọc bài báo “Giáo sinh không muốn cam kết đi dạy?” viết về mấy trăm sinh viên Trường đại học Sư phạm TP.HCM không chịu nộp bản cam kết phục vụ trong ngành giáo dục, là người trong ngành tôi không khỏi cảm thấy xót xa.
Dư luận cho rằng các em đã thi vào trường sư phạm, đã được hưởng chế độ miễn học phí, thế mà khi sắp ra trường lại do dự không muốn đi dạy là một việc đáng chê trách. Có người cực đoan hơn còn quy chụp cho các em “mất tư cách” và đòi phạt thật nặng. Nhưng nói đi cũng phải nói lại, trong thời buổi “thừa kinh tế ế sư phạm” này, khi đầu vào tuyển sinh sư phạm đang “tuột dốc không phanh”, thậm chí có trường hợp “con thi sư phạm mẹ đòi chết” như báo chí đã đưa tin, việc các em can đảm chọn trường sư phạm đã là một việc đáng ghi nhận.
Còn ngành giáo dục, liệu biện pháp “bắt cam kết” để giữ chân đã phải tối ưu chưa hay chỉ là giải pháp tình thế? Nếu cứ tiếp tục “thu hút nhân lực” bằng biện pháp “trói chân” này thì đội ngũ giáo viên sẽ vẫn mãi yếu và mãi thiếu.
Những năm 1990 khi Chính phủ bắt đầu thực hiện chính sách ưu đãi cho ngành giáo dục, số sinh viên thi vào ngành sư phạm khá cao và đương nhiên điểm thi tuyển vào ngành sư phạm luôn cao hơn so với các ngành khác. Thời đó, chỉ những học sinh khá giỏi mới dám thi tuyển vào sư phạm với tỉ lệ chọi rất cao.
Những tưởng nền giáo dục từ đó sẽ chiêu mộ được nhiều người tài giỏi và có tâm huyết, chấm dứt thời kỳ “chuột chạy cùng sào lao vào sư phạm”. Nhưng, cùng với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế, do những chính sách ưu đãi cho ngành giáo dục không theo kịp đà phát triển đó, số lượng người chọn nghề sư phạm ngày càng rơi rụng dần, đến nay ngay cả những “con chuột chạy cùng sào” đã gần đến đích cũng do dự, không muốn phục vụ trong ngành sư phạm nữa!
Không chỉ những người đang lấp ló ngoài ngành ngại bước chân vào sư phạm, chính bản thân những người trong ngành như chúng tôi đây cũng đang rất bối rối và không ít người đã đành đoạn “bỏ trường, bỏ lớp”. Ngân sách đầu tư cho giáo dục năm sau bao giờ cũng nhiều hơn năm trước, nhưng khoản ngân sách đầu tư cho những người trực tiếp tham gia công tác giáo dục thì vẫn giậm chân tại chỗ. Các cấp quản lý than rằng lực lượng giáo viên đông quá, không ngân sách nào bù xuể. Đúng là đang có vấn đề, dường như ngành giáo dục đang chú trọng về số lượng hơn là chất lượng nhân lực!
Một giáo viên trung học phổ thông có số tiết tiêu chuẩn là 18 tiết/ tuần, nghĩa là mỗi ngày chỉ dạy trung bình ba tiết. Với số tiết tiêu chuẩn như vậy, các trường học phải tuyển rất nhiều giáo viên mới đủ biên chế đứng lớp. Trong lúc đó, mỗi giáo viên dạy xong số tiết tiêu chuẩn ở trường phải chạy đôn chạy đáo, người đi dạy hợp đồng, người thì dạy thêm, người nhận thêm việc này việc nọ... nghĩa là vẫn phải lao động thêm để đủ sống.
Dù muốn dù không, một khi đã làm việc chân trong chân ngoài thì công tác chuyên môn sẽ ít nhiều bị sao nhãng. Sao các cấp quản lý không tính tới chuyện tinh giản biên chế, tăng số tiết tiêu chuẩn lên, tăng lương giáo viên lên. Như vậy đời sống giáo viên vừa được đảm bảo, giáo viên khỏi phải làm cái việc chẳng đặng đừng là bươn chải kiếm thêm thu nhập, mà chất lượng chuyên môn chắc chắn cũng sẽ được nâng lên.
Một người thầy tốt không chỉ có trình độ chuyên môn, mà còn cần phải có lòng nhiệt tình và rất nhiều tâm huyết với nghề nghiệp. Nếu các cấp quản lý không nghĩ ra thêm biện pháp nào để tăng sức thu hút của ngành sư phạm với các nhà giáo tương lai (và cả hiện tại nữa) ngoài việc bắt cam kết để cầm chân, e rằng sẽ chỉ tuyển dụng được những thợ dạy học mà thôi. Lòng nhiệt tình và tâm huyết không có bản cam kết nào có thể bảo đảm được.
MINH THƯ

“Vay tiền ở đây đa số là giáo viên”


Thứ Hai, 23/04/2012, 04:03 (GMT+7)
TT - Có chuyện này không biết kể ra thì vui hay buồn nữa. Anh nhân viên ngân hàng lúc tôi đến làm việc còn chưa kịp xưng danh đã nhanh nhảu hỏi rằng: “Chị là giáo viên trường nào?”.
Ban đầu tôi rất phục khả năng nhìn người đoán nghiệp của anh. Vài phút sau, chừng 3-4 khách hàng đến nữa, anh vẫn hỏi câu cũ (và tất cả đều đúng). Nhìn thấy vẻ ngạc nhiên của tôi, anh giải thích: “Đến vay tiền ở đây đa số là giáo viên mà chị”, rồi nhanh nhẹn hỏi hệ số lương của từng người, cộng thêm hệ số phụ cấp thâm niên rồi còn khen “lương giáo viên cũng đỡ”.
Tại khách hàng của anh đông, tôi lại vội, nếu không sẽ đứng lại phân trần với anh rằng khoản phụ cấp thâm niên mà anh vừa cộng vào để kết luận “lương giáo viên cũng đỡ” đã làm chúng tôi phấn khởi, chờ đợi, thất vọng rồi lại trông ngóng gần một năm nay rồi.
Theo nghị định 54/2011/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ tháng 9-2011 thì giáo viên giảng dạy từ năm thứ 6 trở đi sẽ được nhận thêm phụ cấp thâm niên 1% cho mỗi năm công tác, được tính hưởng từ tháng 5-2011. Hàng triệu giáo viên hân hoan chào đón nghị định như đón một luồng gió mới, hớn hở hi vọng rằng với sự đầu tư chính đáng của Nhà nước, đời sống từ nay sẽ bớt khó khăn vất vả.
Thế rồi hết tháng 9, tháng 10... rồi hết cả năm 2011 mà khoản phụ cấp kia chẳng thấy đâu, trong khi giá cả đã leo thêm mấy bậc thang đẩy giáo viên càng lâm vào cảnh khốn đốn. Nhiều giáo viên lâu năm tin tưởng vào khoản phụ cấp, vay trước tiền đầu tư mua máy tính cho con có điều kiện học hành, vay tiền mua xe máy để tiện đi lại... chờ khi nhận phụ cấp thâm niên sẽ hoàn trả, nhưng cứ chờ mãi cho đến tận bây giờ...
Trước sự sốt ruột của giáo viên, có người quản lý giáo dục lại giải thích “nhận trễ thì sẽ được truy lãnh”, còn việc bao giờ được nhận vẫn là “một câu hỏi lớn không lời đáp”. Vâng, nhận trễ sẽ được truy lãnh, có gì đâu mà sốt ruột. Nhưng làm sao mà bảo giáo viên bình tĩnh chờ đợi khi vật giá leo thang vùn vụt, giá xăng, giá gas, giá điện... đã tăng thêm đến mấy lần, giá trị của khoản trợ cấp thâm niên ngày càng teo tóp?
Giáo viên chúng tôi đã thôi không còn trông mong sẽ “sống được bằng lương” như có vị lãnh đạo trước đây hứa. Thế nhưng, những quyền lợi chính đáng của giáo viên (đã có nghị định rành rành) thì rất mong các cấp lãnh đạo quan tâm giải quyết kịp thời, đừng để chúng tôi chờ đợi mỏi mòn nữa.
LÊ THÚY HẰNG